Xã Kiệt Thạch, tổng Đậu Liêu, huyện Thiên Lộc
xưa, nay là xã Thanh Lộc, huyện Can Lộc không chỉ có núi Sạc, sông Cài kỳ thú
mà vùng đất này còn gắn bó với truyền thuyết huyền thoại, đó là dấu chân ông
Đùng ở đỉnh Động Mọn, khe Ba Giọt dưới chân Động Trùa, đá Vọng Phu và đá Thần ở
đền Bàn Thổ. Ngoài ra, còn có các địa danh mang dấu ấn lịch sử, đó là nơi Mai
Thúc Loan dựng cờ, lập đồn binh chống ách đô hộ của nhà Đường cuối thế kỷ VIII
và bãi tập nghĩa quân Cần Vương do cha con Nguyễn Văn Liên, Nguyễn Lương Cận
dấy binh ứng nghĩa. Đặc biệt, có bến đò Cài đã bao lần in bóng đấu chân của
danh nhân Nguyễn Du trong những lần từ Tiên Điền vượt Truông Hống (núi Hồng
Lĩnh) đi hái ví Phường Vải:
Nhà thờ Tiến sỹ Nguyễn
Cung tại xã Thanh Lộc, huyện Can Lộc
Hồng Sơn cao ngất ngàn
trùng
Đò Cài mấy trượng thì
lòng bấy nhiêu
Làng Kiệt Thạch xưa còn có tên "làng Tiến
Sỹ", vì trong những năm cuối thế kỷ XV, dưới thời vua Lê Thánh Tông niên
hiệu Hồng Đức thứ 9, Hồng Đức thứ 24 và thời vua Lê Tương Dực niên hiệu Hồng
Thuận thứ 3, làng có 3 vị đỗ Tiến sỹ trong 3 khoa thi liên tiếp là Hoàng Hiền
(1478), Nguyễn Đình Quan, hiệu Long Cung (1493) và Thái Kính (1511) nên được
vua ban thưởng biển vàng khắc mỹ tự : " Kiệt Thạch tam khoa, tam tiến
sỹ". Kiệt Thạch xưa là một trong những làng đầu tiên của Hà Tĩnh được dựng
bia tiến sỹ " Khoa giáp bi", bia khoa giáp vào năm Ất Hợi (1755)
triều vua Cảnh Hưng thứ 16, để ghi nhớ 3 vị đại khoa đã làm rạng danh vùng đất
này. Với lịch sử lâu đời và truyền thống văn hóa đặc sắc được lưu giữ, trao
truyền từ đời này sang đời khác trong cộng đồng làng xã, mảnh đất này là cái
nôi hình thành, nuôi dưỡng nên các bậc anh hùng, hào kiệt mà cuộc đời và sự
nghiệp của họ đã làm rạng danh dòng họ và quê hương, đất nước.

Văn nghệ chào mừng tại
Lễ đón Bằng công nhận di tích lịch sử cấp tỉnh Nhà thờ Nguyễn Cung
Căn cứ tài liệu còn lưu giữ tại nhà thờ cho biết dòng họ Nguyễn Đình có nguồn
gốc từ xã Cương Gián - Nghi Xuân - Hà Tĩnh đến vùng đất Kiệt Thạch sinh cơ lập
nghiệp vào nửa sau thế kỷ 15, đến nay đã có 15 đời sinh sống và phát triển dưới
chân Sạc Sơn. Vùng đất này lúc bấy giờ vẫn còn hoang hóa, đất sản xuất còn chật
hẹp, đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn đói kém, nhưng con cháu họ Nguyễn
Đình đã tìm cách cải tạo ruộng đất, chăm lo lao động nên đời sống ngày càng no
ấm, phát triển. Thủy tổ của dòng họ Nguyễn Thế Gia, thuộc dòng dõi của Thái Sư
Cương Quốc Công Nguyễn Xí. Ông làm quan đến chức Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng
quân Hiến sát sứ ty, gia nghĩa đại phu. Ông Nguyễn Thế Gia từng làm quan ở Hải
Dương, gia đình ông có 5 con trai và 3 con gái. Con trai trưởng là Giám sinh
Quốc Tử Giám, tước Thụ Lộc nam, làm đến chức Cẩm Y vệ Chỉ huy sứ, thượng kinh
xa hiệu hình bộ; người thứ 2 là Hoàng Giáp Nguyễn Cung; người thứ 3 là Nguyễn
Kiệm, làm quan đến chức Khâm thụ viên ngoại; người thứ 4 là Nguyễn Toản, tước
Mỹ Lộc nam; người thứ 5 là Nguyễn Hạp tước quận công. Sau khi nhà Mạc chiếm
ngôi nhà Lê, ông Nguyễn Thế Gia trở về xã Kiệt Thạch sinh sống và hình thành
nên dòng họ Nguyễn Đình ở đây.

Lãnh đạo xã Thanh Lộc và
dòng họ Nguyễn nhận Bằng công nhận di tích lịch sử Nhà thờ Nguyễn Cung
Trải qua bao đời sinh cơ lập nghiệp trên mảnh đất Kiệt Thạch, dòng họ
Nguyễn đã sinh ra những người con ưu tú có nhiều đóng góp cho quê hương, đất
nước. Đặc biệt vào nửa cuối thế kỷ 15, người con của dòng họ là Nguyễn Cung
phục vụ dưới thời Lê Sơ, được vinh danh và ghi nhận công trạng. Nguyễn Cung
sinh năm Thái Hòa thứ 4 (1448), triều vua Lê Nhân Tông, người xã Kiệt Thạch,
huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang nay là xã Thanh Lộc, huyện Can Lộc, trong một
gia đình quan lại ở kinh đô Thăng Long, cha là Nguyễn Thế Gia, mẹ là Lê Thị
Nhiêu. Ngay từ thuở nhỏ, Nguyễn Cung đã theo học chữ Hán và bộc lộ bản chất
hiếu học, thông minh của mình. Năm 45 tuổi, ông đi thi và xuất sắc đỗ Hoàng
giáp, được đức vua trọng vọng ban tặng áo mũ, thết tiệc, các hồng lô làm lễ
xướng danh ở nhà Thái học, được ghi tên vào bảng vàng treo ở cửa Đông hoa trước
khi về quê làm lễ vinh quy bái tổ. Dưới chế độ khoa cử Lê Sơ, con đường quan lộ
của ông được rộng mở. Ông làm quan đến chức Thừa chánh sứ. Bia “Khoa giáp bi
chí” dựng năm Ất Hợi niên hiêu Cảnh Hưng thứ 16 (1755) tại nhà thờ họ Hoàng,
thôn Yên Hợp xã Thanh Lộc do Tri huyện huyện Hoằng Hóa Nguyễn Đình Hiển ghi lại
và Nguyễn Thừa viết chữ Hán, đã dịch có đoạn: “Nguyễn Cung đỗ đệ nhị giáp Tiến
sĩ, xuất thân khoa thi năm Quý Sửu, niên hiệu Hồng Đức thứ 24 (1493), quê xã Kiệt
Thạch, đứng thứ 3 trong Đệ nhị giáp, làm quan đến chức Thừa chánh sứ ty”.
Nguyễn Cung sống trải qua các đời vua thời Lê
Sơ. Giai đoạn đầu của thời Lê Sơ là thời kỳ phát triển đỉnh cao của chế độ
phong kiến trung ương tập quyền của quốc gia Đại Việt về tất cả các mặt chính
trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục. Thời kỳ này có nhiều tư tưởng về giáo dục nhân
tài hết sức sâu sắc, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là việc coi “hiền tài
là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng, nguyên khí
suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế, các bậc đế vương thánh minh không đời
nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc
gia làm công việc cần thiết...”
Tư liệu về Nguyễn Cung không còn nhiều, chỉ biết
ông làm đến chức Thừa chánh sứ ty, không biết ông làm ở đạo thừa tuyên nào và
làm quan trong bao lâu. Tuy nhiên nghiên cứu gia phả họ Nguyễn Đình cho ta
thấy, từ năm 1493 đến năm 1513, ông được bổ làm Tổng Chánh sứ Nghệ An, tước
Định Lộc hầu. Từ năm 1517, ông làm quan Thừa chánh sứ Hải Dương vào thời kỳ nhà
Mạc chiếm ngôi nhà Lê. Tình hình chính trị rối ren buộc cha con ông di cư từ xã
Cẩm La, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương về sống ở chân núi Sạc Sơn, xã Kiệt
Thạch. Ở thời đại của danh nhân Nguyễn Cung, chức quan Thừa chánh sứ, tương
đương với chức quan tòng tam phẩm, làm việc ở thừa chánh sứ ty (gọi tắt là Thừa
ty) phụ trách công việc dân sự ở đạo thừa tuyên, bên cạnh Đô tổng binh sứ ty
(gọi tắt là Đô ty) phụ trách quân đội, Hiến sát sứ ty (gọi tắt là Hiến ty) phụ
trách việc thanh tra quan lại trong đạo của mình.
Qua tư liệu khảo sát điều dã thực địa tại địa phương cho thấy, Nguyễn Cung có
tài năng và học rộng. Dù trải quan thời kỳ nào trong cuộc đời, ở chức vụ nào
được giao, ông cũng luôn là người vượt trội về phẩm chất và khả năng quản lý,
xử lý công việc hợp tình, hợp lý, được nhân dân tin yêu, kính trọng và triều
đình tin tưởng, giao cho nhiều việc hệ trọng của quốc gia đất nước và đáp lại
ông luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ của mình được giao. Hiện nay vẫn chưa
thấy tài liệu nào cho biết Nguyễn Cung mất ngày, tháng, năm nào, dòng họ Nguyễn
Đình lấy ngày Đông chí hàng năm làm giỗ cho ông.
Lễ rước Bằng công nhận di tích lịch sử cấp tỉnh về Nhà thờ Nguyễn Cung
Với những đóng góp của danh nhân
Nguyễn Cung đối với quê hương đất nước, Nhà thờ Nguyễn Cung được UBND tỉnh Hà
Tĩnh công nhận di tích lịch sử văn hóa tại Quyết định số 315/QĐ-UBND, ngày
03/02/2016.
Hà
Trần - Phòng Văn hóa&TT