GIA ĐÌNH NGUYỄN THỊ NGỌC LÂM

01:07 |
ẢNH GIA ĐÌNH

NGUYỄN THỊ NGỌC LÂM - LÊ QUANG KÌNH











Xem tiếp…

GIA ĐÌNH MINH TÂM

00:59 |
ẢNH GIA ĐỊNH

NGUYỄN THỊ MINH TÂM


Xem tiếp…

GIA ĐÌNH NGUYỄN DŨNG

00:52 |
ẢNH GIA ĐÌNH

NGUYỄN DŨNG


Xem tiếp…

GIA ĐÌNH NGUYỄN HÙNG

00:51 |
ẢNH GIA ĐÌNH

NGUYỄN HÙNG


Xem tiếp…

GIA ĐÌNH NGUYỄN KỲ SƠN

00:39 |
ẢNH GIA ĐÌNH

NGUYỄN KỲ SƠN







Xem tiếp…

GIA ĐÌNH PHƯƠNG - QUYỀN

00:35 |
ẢNH GIA ĐÌNH


PHƯƠNG - QUYỀN




Xem tiếp…

GIA ĐÌNH NGUYỄN VĂN HƯƠNG

00:34 |
ẢNH GIA ĐÌNH

NGUYỄN VĂN HƯƠNG - HỒ THỊ XUÂN


Xem tiếp…

GIA ĐÌNH NGUYỄN VĂN HOA

00:32 |
ẢNH GIA ĐÌNH

NGUYỄN VĂN HOA










Xem tiếp…

NGÀY GIỖ

23:54 |

ẢNH NGÀY GIỖ TREO TẠI NHÀ THỜ


Bản này do Ôn Nguyễn Hoằng lập


Xem tiếp…

THỜ TỰ TẠI TỪ ĐƯỜNG

23:46 |



Gian giữa Thờ Cố, Ôn Mệ



Gian tả thờ Mệ Hường/ Ôn Mệ Diên/ Ôn Hoằng.

Gian hữu thờ: Nhánh Ôn Ấm Quán

Xem tiếp…

HÌNH ẢNH NHÀ THỜ HỌ TẠI DIÊN SANH

23:41 |

HÌNH ẢNH NHÀ THỜ TẠI DIÊN SANH

 Nhà thờ nhìn từ phía trước
Sân nhà thờ
Bình phong chữ Phúc

Sân sau nhà thờ


 Nhà tự gia đình Anh Bá trông nom








Xem tiếp…

NGUYỄN TỘC THẾ PHỔ TỰ

23:04 |

NGUYỄN TỘC THẾ PHỔ TỰ


Thiết nghĩ:
Cây có gốc mới đâm chồi nãy lộc
Nước có nguồn mới dòng nọ lạch kia.

          Gốc nguồn của con người là ở Tổ tiên vậy.
Thế thì muốn rõ gốc phải dò cành, muốn tìm nguồn phải theo lạch. Con cháu đời đời truyền nối phải biết phúc ấm hưởng thụ từ đâu ? 
          Nước không có sử thì thành tích của dân tộc sẽ mai một, họ không có phổ dấu nếp Tổ tiên sẽ lu mờ. Ôi ! Phong hóa từ đó mà suy đồi, Luân lý từ đó mà quái suyện. Cho nên Phổ ký là một vấn đề quan trọng chúng ta không thể không lo xa được.
          Nguyễn chúng ta nhờ phước ấm Tổ tiên, nông tang nối nghiệp, trung hậu di truyền. Trãi bao công lao gây dựng mới có ngày nay. Tiếc thay từ vị Hoàng sơ Thế Tổ về trước thế hệ thất truyền nên sử tích xưa kia khó lòng kê khảo.
Chỉ nghe rằng:
          Ngài húy Hiên hoặc Liên, quán xã Quả Phẩm (Xã Xuân Hồng bây giờ) Huyện Nghi Xuân. Nhân buổi loạn ly nên dời vào trong này (Kỳ Trúc,  xã Kiệt Thạch, huyện Can Lộc tức xã Thanh Lộc bây giờ)
Lam giang Kỳ thủy, nguồn nước dồi dào.
Hồng lĩnh Sạc sơn, góc mai rậm rạp.
Giờ đây uống nước nhớ nguồn, vin nhành tưởng gốc. Con con, cháu cháu truyền nối đời đời...lần theo thế hệ ghi chép để truyền về sau ngõ hầu góp một phần nào đối với gia tộc. Nếu có điều sai thất, con cháu ngày sau nên kế tục bổ sung được thêm đầy đủ mong ước biết dường nào.


Ghi chú: Quyển Phổ ký này chép theo quyển Phổ bằng Hán văn ( Làm từ đời vua Tự Đức - Nguyên niên cuối năm Mậu Thân) và có bổ sung thêm.

Xem tiếp…

1

05:51 |
1
Xem tiếp…

Ảnh Chị Chỉ

03:48 |










Xem tiếp…

Ảnh Nghệ

03:47 |

Xem tiếp…

Tiến sỹ Nguyễn Cung người con ưu tú của quê hương Kiệt Thạch xưa, Thanh Lộc nay

01:40 |
Xã Kiệt Thạch, tổng Đậu Liêu, huyện Thiên Lộc xưa, nay là xã Thanh Lộc, huyện Can Lộc không chỉ có núi Sạc, sông Cài kỳ thú mà vùng đất này còn gắn bó với truyền thuyết huyền thoại, đó là dấu chân ông Đùng ở đỉnh Động Mọn, khe Ba Giọt dưới chân Động Trùa, đá Vọng Phu và đá Thần ở đền Bàn Thổ. Ngoài ra, còn có các địa danh mang dấu ấn lịch sử, đó là nơi Mai Thúc Loan dựng cờ, lập đồn binh chống ách đô hộ của nhà Đường cuối thế kỷ VIII và bãi tập nghĩa quân Cần Vương do cha con Nguyễn Văn Liên, Nguyễn Lương Cận dấy binh ứng nghĩa. Đặc biệt, có bến đò Cài đã bao lần in bóng đấu chân của danh nhân Nguyễn Du trong những lần từ Tiên Điền vượt Truông Hống (núi Hồng Lĩnh) đi hái ví Phường Vải:

Nhà thờ Tiến sỹ Nguyễn Cung tại xã Thanh Lộc, huyện Can Lộc
Hồng Sơn cao ngất ngàn trùng
Đò Cài mấy trượng thì lòng bấy nhiêu
Làng Kiệt Thạch xưa còn có tên "làng Tiến Sỹ", vì trong những năm cuối thế kỷ XV, dưới thời vua Lê Thánh Tông niên hiệu Hồng Đức thứ 9, Hồng Đức thứ 24 và thời vua Lê Tương Dực niên hiệu Hồng Thuận thứ 3, làng có 3 vị đỗ Tiến sỹ trong 3 khoa thi liên tiếp là Hoàng Hiền (1478), Nguyễn Đình Quan, hiệu Long Cung (1493) và Thái Kính (1511) nên được vua ban thưởng biển vàng khắc mỹ tự : " Kiệt Thạch tam khoa, tam tiến sỹ". Kiệt Thạch xưa là một trong những làng đầu tiên của Hà Tĩnh được dựng bia tiến sỹ " Khoa giáp bi", bia khoa giáp vào năm Ất Hợi (1755) triều vua Cảnh Hưng thứ 16, để ghi nhớ 3 vị đại khoa đã làm rạng danh vùng đất này. Với lịch sử lâu đời và truyền thống văn hóa đặc sắc được lưu giữ, trao truyền từ đời này sang đời khác trong cộng đồng làng xã, mảnh đất này là cái nôi hình thành, nuôi dưỡng nên các bậc anh hùng, hào kiệt mà cuộc đời và sự nghiệp của họ đã làm rạng danh dòng họ và quê hương, đất nước.

Văn nghệ chào mừng tại Lễ đón Bằng công nhận di tích lịch sử cấp tỉnh Nhà  thờ Nguyễn Cung
          Căn cứ tài liệu còn lưu giữ tại nhà thờ cho biết dòng họ Nguyễn Đình có nguồn gốc từ xã Cương Gián - Nghi Xuân - Hà Tĩnh đến vùng đất Kiệt Thạch sinh cơ lập nghiệp vào nửa sau thế kỷ 15, đến nay đã có 15 đời sinh sống và phát triển dưới chân Sạc Sơn. Vùng đất này lúc bấy giờ vẫn còn hoang hóa, đất sản xuất còn chật hẹp, đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn đói kém, nhưng con cháu họ Nguyễn Đình đã tìm cách cải tạo ruộng đất, chăm lo lao động nên đời sống ngày càng no ấm, phát triển. Thủy tổ của dòng họ Nguyễn Thế Gia, thuộc dòng dõi của Thái Sư Cương Quốc Công Nguyễn Xí. Ông làm quan đến chức Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân Hiến sát sứ ty, gia nghĩa đại phu. Ông Nguyễn Thế Gia từng làm quan ở Hải Dương, gia đình ông có 5 con trai và 3 con gái. Con trai trưởng là Giám sinh Quốc Tử Giám, tước Thụ Lộc nam, làm đến chức Cẩm Y vệ Chỉ huy sứ, thượng kinh xa hiệu hình bộ; người thứ 2 là Hoàng Giáp Nguyễn Cung; người thứ 3 là Nguyễn Kiệm, làm quan đến chức Khâm thụ viên ngoại; người thứ 4 là Nguyễn Toản, tước Mỹ Lộc nam; người thứ 5 là Nguyễn Hạp tước quận công. Sau khi nhà Mạc chiếm ngôi nhà Lê, ông Nguyễn Thế Gia trở về xã Kiệt Thạch sinh sống và hình thành nên dòng họ Nguyễn Đình ở đây.

Lãnh đạo xã Thanh Lộc và dòng họ Nguyễn nhận Bằng công nhận di tích lịch sử Nhà thờ Nguyễn Cung

           Trải qua bao đời sinh cơ lập nghiệp trên mảnh đất Kiệt Thạch, dòng họ Nguyễn đã sinh ra những người con ưu tú có nhiều đóng góp cho quê hương, đất nước. Đặc biệt vào nửa cuối thế kỷ 15, người con của dòng họ là Nguyễn Cung phục vụ dưới thời Lê Sơ, được vinh danh và ghi nhận công trạng. Nguyễn Cung sinh năm Thái Hòa thứ 4 (1448), triều vua Lê Nhân Tông, người xã Kiệt Thạch, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang nay là xã Thanh Lộc, huyện Can Lộc, trong một gia đình quan lại ở kinh đô Thăng Long, cha là Nguyễn Thế Gia, mẹ là Lê Thị Nhiêu. Ngay từ thuở nhỏ, Nguyễn Cung đã theo học chữ Hán và bộc lộ bản chất hiếu học, thông minh của mình. Năm 45 tuổi, ông đi thi và xuất sắc đỗ Hoàng giáp, được đức vua trọng vọng ban tặng áo mũ, thết tiệc, các hồng lô làm lễ xướng danh ở nhà Thái học, được ghi tên vào bảng vàng treo ở cửa Đông hoa trước khi về quê làm lễ vinh quy bái tổ. Dưới chế độ khoa cử Lê Sơ, con đường quan lộ của ông được rộng mở. Ông làm quan đến chức Thừa chánh sứ. Bia “Khoa giáp bi chí” dựng năm Ất Hợi niên hiêu Cảnh Hưng thứ 16 (1755) tại nhà thờ họ Hoàng, thôn Yên Hợp xã Thanh Lộc do Tri huyện huyện Hoằng Hóa Nguyễn Đình Hiển ghi lại và Nguyễn Thừa viết chữ Hán, đã dịch có đoạn: “Nguyễn Cung đỗ đệ nhị giáp Tiến sĩ, xuất thân khoa thi năm Quý Sửu, niên hiệu Hồng Đức thứ 24 (1493), quê xã Kiệt Thạch, đứng thứ 3 trong Đệ nhị giáp, làm quan đến chức Thừa chánh sứ ty”.
Nguyễn Cung sống trải qua các đời vua thời Lê Sơ. Giai đoạn đầu của thời Lê Sơ là thời kỳ phát triển đỉnh cao của chế độ phong kiến trung ương tập quyền của quốc gia Đại Việt về tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục. Thời kỳ này có nhiều tư tưởng về giáo dục nhân tài hết sức sâu sắc, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là việc coi “hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế, các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết...”
Tư liệu về Nguyễn Cung không còn nhiều, chỉ biết ông làm đến chức Thừa chánh sứ ty, không biết ông làm ở đạo thừa tuyên nào và làm quan trong bao lâu. Tuy nhiên nghiên cứu gia phả họ Nguyễn Đình cho ta thấy, từ năm 1493 đến năm 1513, ông được bổ làm Tổng Chánh sứ Nghệ An, tước Định Lộc hầu. Từ năm 1517, ông làm quan Thừa chánh sứ Hải Dương vào thời kỳ nhà Mạc chiếm ngôi nhà Lê. Tình hình chính trị rối ren buộc cha con ông di cư từ xã Cẩm La, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương về sống ở chân núi Sạc Sơn, xã Kiệt Thạch. Ở thời đại của danh nhân Nguyễn Cung, chức quan Thừa chánh sứ, tương đương với chức quan tòng tam phẩm, làm việc ở thừa chánh sứ ty (gọi tắt là Thừa ty) phụ trách công việc dân sự ở đạo thừa tuyên, bên cạnh Đô tổng binh sứ ty (gọi tắt là Đô ty) phụ trách quân đội, Hiến sát sứ ty (gọi tắt là Hiến ty) phụ trách việc thanh tra quan lại trong đạo của mình.
          Qua tư liệu khảo sát điều dã thực địa tại địa phương cho thấy, Nguyễn Cung có tài năng và học rộng. Dù trải quan thời kỳ nào trong cuộc đời, ở chức vụ nào được giao, ông cũng luôn là người vượt trội về phẩm chất và khả năng quản lý, xử lý công việc hợp tình, hợp lý, được nhân dân tin yêu, kính trọng và triều đình tin tưởng, giao cho nhiều việc hệ trọng của quốc gia đất nước và đáp lại ông luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ của mình được giao. Hiện nay vẫn chưa thấy tài liệu nào cho biết Nguyễn Cung mất ngày, tháng, năm nào, dòng họ Nguyễn Đình lấy ngày Đông chí hàng năm làm giỗ cho ông.

        Lễ rước Bằng công nhận di tích lịch sử cấp tỉnh về Nhà thờ Nguyễn Cung
  Với những  đóng góp của danh nhân Nguyễn Cung đối với quê hương đất nước, Nhà thờ Nguyễn Cung được UBND tỉnh Hà Tĩnh công nhận di tích lịch sử văn hóa tại Quyết định số 315/QĐ-UBND, ngày 03/02/2016.

                                                                      Hà Trần - Phòng Văn hóa&TT
Xem tiếp…